TIỂU LUẬN
PHÁP LUẬT VỀ KẾ TOÁN & KIỂM TOÁN
ĐỀ TÀI:
TỘI “VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ KẾ TOÁN GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG” THEO ĐIỀU 221 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ HƯỚNG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM.
THỰC HIỆN : ĐỒNG THANH
Mở đầu:
- Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, số lượng các vụ vi phạm trong lĩnh vực kế toán có chiều hướng gia tăng. Các nhân viên kế toán lợi dụng những kẽ hở trong quản lý tại đơn vị để tìm cách giả mạo, khai man, lập khống giấy tờ, tài liệu kế toán để chiếm đoạt tài sản.
Có thể điểm lại một số vụ án được đưa ra xét xử công khai thu hút được sự quan tâm của dư luận thời gian qua, cụ thể, ngày 18/9/2015, Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Bình Phước đã xét xử sơ thẩm công khai đối với bị cáo Huỳnh Nguyễn Quế Trâm (trú tại huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương), nguyên kế toán Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Phước với tội danh “Tham ô tài sản” theo điểm a, khoản 4, Điều 278, Bộ luật Hình sự.
Theo cơ quan quan điều tra, từ năm 2010 – 2013, nhân viên kế toán này đã chủ động soạn thảo, in ấn các văn bản, chứng từ và làm giả chữ ký của lãnh đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Phước để thực hiện 11 lần giao dịch rút tiền quỹ chi hỗ trợ bão lụt, nạn nhân chất độc da cam, hỗ trợ gia đình chính sách… của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tỉnh gửi tại Kho bạc Tỉnh và một số ngân hàng để chiếm đoạt số tiền trên 6,1 tỷ đồng.
Ngày 21/12/2017, TAND TP. Cần Thơ đã xét xử sơ thẩm và tuyên phạt Vũ Thị Hồng Yến – Nguyên Kế toán trưởng Trường Cao đẳng nghề Du lịch TP. Cần Thơ 20 năm tù về tội Tham ô tài sản. Được biết, trong thời gian làm việc tại Trường, bị cáo đã nhiều lần lập khống ủy nhiệm chi, nâng khống tiền thu nhập tăng thêm của cán bộ Nhà trường, nâng khống tiền phụ cấp… để chiếm đoạt tài sản. Theo kết luận của cơ quan điều tra, từ tháng 09/2010 – 07/2016, đối tượng này đã chiếm đoạt tổng số tiền trên 8,3 tỷ đồng.
Đặc biệt, năm 2018 cũng chứng kiến rất nhiều vụ án liên quan đến kế toán, cho thấy xu hướng vi phạm trong lĩnh vực kế toán ngày càng tăng. Cụ thể, ngày 5/1/2018, TAND TP. Hà Nội mở phiên sơ thẩm xét xử đối với Hoàng Thị Phương Lan (quận Đống Đa, Hà Nội) về tội “Tham ô tài sản”, theo khoản 4, Điều 278 – Bộ luật Hình sự và quyết định tuyên phạt 17 năm tù về tội “Tham ô tài sản” theo Bộ luật Hình sự. Theo cáo trạng truy tố, trong thời gian làm kế toán nghiệp vụ thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ba Đình, Hà Nội, nhân viên kế toán này đã lập 5 chứng từ trích chuyển tiền trong tài khoản tạm giữ, kèm theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử cho các đương sự với nội dung sai lệch để chiếm đoạt tiền. Tổng cộng, bị cáo đã giả mạo chữ ký để chiếm đoạt hơn 3,5 tỷ đồng) Ngày 11/4/2018, TAND tỉnh Kiên Giang tuyên phạt Phạm Thị Ngọc Ánh (Phú Quốc) 15 năm tù vì tội Tham ô tài sản.
Theo hồ sơ vụ án, từ năm 2013 đến tháng 6/2016, bị cáo là kế toán kiêm thủ quỹ quản lý các khoản tiền thu phí, lệ phí đất đai tại Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện Phú Quốc. Theo đó, Ánh bôi xóa, sửa chữa số tiền ghi trên 128 biên lai thu phí và lệ phí (lai lưu) sao cho thấp hơn số tiền trên biên lai đã thu để chiếm đoạt gần 2,5 tỷ đồng. Để che dấu hành vi phạm tội, cán bộ kế toán này bôi xóa, sửa chữa các loại chứng từ để trùng khớp với bảng kê rồi trình cho ban giám đốc ký quyết toán để nộp vào ngân sách ít hơn.
Ngày 3/5/2018, TAND TP. Hồ Chí Minh đã tuyên phạt bị cáo Trần Thị Thu Trang (nguyên Phó trưởng phòng Kế toán giao dịch và Ngân quỹ, Ngân hàng TMCP Bản Việt chi nhánh Gia Định) tù chung thân về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ ngày 7/2/2013 đến ngày 4/9/2013, Trang đã chỉ đạo nhân viên dưới quyền lập 53 chứng từ khống rồi giả chữ ký, tất toán sổ tiết kiệm của 12 khách hàng để chiếm đoạt hơn 82,3 tỷ đồng của Ngân hàng TMCP Bản Việt…
Từ đó cho thấy phải có hướng kiểm soát công tác kế toán trong doanh nghiệp và cơ quan.
- Mục đích của đề tài
Từ thực tiễn các vụ án liên quan đến lĩnh vực kế toán, trong đó đặc biệt về tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng ngày càng diễn ra phức tạp. Vì vậy việc nghiên cứu giải pháp kiểm soát tội phạm về lĩnh vực kế toán là để giúp cho các doanh nghiệp an toàn về tài chính và kế toán. Đồng thời giúp các cơ quan chức năng kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ công tác kế toán trong doanh nghiệp và cơ quan.
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung chính vào lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Đặc biệt chú trọng đến những sai phạm của kế toán về hành vi phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo điều 221 Bộ Luật hình sự 2015 và hướng kiểm soát tội phạm”. Từ đó đưa ra hướng kiểm soát nhằm giảm thiểu các hành vi phạm tội về kế toán.
– Phạm vi nghiên cứu: trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và áp dụng vào công tác kiểm tra, kiểm soát nghiệp vụ kế toán tại các cơ quan hành chính sự sự nghiệp.
- Phương pháp nghiên cứu
– Phương pháp tổng hợp
– Phương pháp thống kê
– Phương pháp đối chiếu, so sánh.
– Phương pháp khảo sát xã hội học
– Phương pháp phân tích định lượng
Chương 1: Cơ sở lý luận định tội về vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo điều 221 Bộ Luật hình sự 2015
- Khái quát về kế toán
Kế toán (Accounting) là quá trình ghi chép, phân tích và báo cáo về các giao dịch tài chính của một tổ chức hoặc cá nhân. Thông qua việc thu thập và xử lý thông tin, kế toán giúp người quản lý hiểu rõ tình hình tài chính và hiệu suất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó hỗ trợ trong việc ra quyết định, lập kế hoạch cho tương lai. Là quá trình ghi chép, phân tích và báo cáo về các giao dịch tài chính của tổ chức hoặc cá nhân. Kế toán cung cấp thông tin quản lý, hỗ trợ ra quyết định và tuân thủ pháp luật.
- Vai trò và trách nhiệm của kế toán
– Vai trò của kế toán
Bộ phận kế toán đóng vai trò là huyết mạch, trung tâm của bất kỳ một doanh nghiệp hay tổ chức nào. Kế toán giúp cho doanh nghiệp phát triển theo chiều hướng chủ động quản lý và hợp pháp với pháp luật nhà nước.
Kế toán có đóng góp vai trò to lớn trong quá trình quản lý thu, chi của doanh nghiệp, tổ chức. Từ đó, chủ doanh nghiệp, quản lý sẽ có cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính, hiệu quả của hoạt động kinh doanh và xác định được những kế hoạch cần làm trong tương lai.
Từ việc theo dõi các khoản phải trả, giải ngân như một khoản nợ phải trả, kế toán đảm bảo rằng tất cả các chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp được thanh toán đúng hạn, tránh được những vấn đề về nợ xấu doanh nghiệp.
Kế toán cũng là bộ phận đại diện cho doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm pháp lý với các cơ quan chức năng nhà nước thông qua việc thanh toán thuế.
Kế toán sẽ thực hiện các khoản thanh toán thuế cho cơ quan chính phủ như thuế doanh nghiệp, thuế thất nghiệp, thuế an sinh xã hội và bồi thường cho người lao động, thuế thu nhập cá nhân của cán bộ, nhân viên,… Bộ phận kế toán chịu trách nhiệm nộp thuế đúng thời hạn để doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trước pháp luật.
Như vậy, khi công tác kế toán được thực hiện một cách minh bạch, chính xác, nghiêm túc sẽ giúp cho doanh nghiệp, tổ chức tối ưu hóa được dòng tiền, giảm thiểu những lãng phí, gian lận; đảm bảo được tính pháp lý; góp phần tạo nên tín nhiệm và thành công của doanh nghiệp
– Trách nhiệm của kế toán
Theo Điều 4 Luật Kế toán năm 2015 đã nêu rõ nhiệm vụ mà kế toán cần thực hiện bao gồm:
Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công việc kế toán, theo chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán.
Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, nghĩa vụ thu, nộp, thanh toán nợ; kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán.
Phân tích thông tin, số liệu kế toán; tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.
Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo quy định của pháp luật
Như vậy, có thể thấy nhiệm vụ của kế toán gắn liền với dòng tiền và tài sản của công ty. Công việc của kế toán viên liên quan đến sự lưu thông của dòng tiền trong doanh nghiệp, kế toán sẽ ghi chép, theo dõi, phản ánh sự vận động của dòng vốn, tài sản, doanh thu, lợi nhuận của công ty.
Cụ thể, kế toán sẽ ghi chép lại quá trình thu chi tài sản; các số liệu từ đó phân tích, tạo ra những báo cáo phục vụ cho công tác điều hành, lập ra kế hoạch của hoạt động kinh doanh. Kế toán cũng góp phần cung cấp số liệu báo cáo của doanh nghiệp cho các cơ quan theo chế độ hiện hành theo Luật kế toán.
- Quy định của pháp luật về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo điều 221 Bộ Luật hình sự 2015.
BLHS năm 2015 bổ sung tội danh mới “Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” tại Điều 221
Để ngăn chặn tình trạng sai phạm trong công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán và hoạt động nghề nghiệp kế toán ở nước ta ngày càng nghiêm trọng, gây ảnh hưởng rất xấu đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế, từ đó BLHS năm 2015 bổ sung tội danh mới “Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” tại Điều 221.
- Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
- a) Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
- b) Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
- c) Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
- d) Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ quy định của Luật kế toán;
đ) Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.
- Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm:
- a) Vì vụ lợi;
- b) Có tổ chức;
- c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
- d) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
- Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Đặc điểm phạm tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
– Chủ thể của tội phạm: Đây là tội phạm đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Đó là người có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền nhất định trong hoạt động nghề nghiệp kế toán.
– Mặt hủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội cố ý.
– Khách thể của tội phạm: Hành vi phạm tội xâm phạm đến chế độ quản lí nhà nước đối với kế toán. “Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động”.
– Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau:
+ Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
+ Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
+ Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
+ Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ quy định của Luật kế toán;
+ Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.
Người phạm tội có thể thực hiện một hành vi hoặc nhiều hành vi trong các dạng hành vi kể trên.
Hành vi đã thực hiện bị coi là tội phạm nếu người thực hiện hành vi trên gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thiệt hại hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.
Ví dụ 1:
Bản án số 13/2021/HS-ST ngày 05/03/2021 của Tòa án nhân dân huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tóm tắt nội dung vụ án:
Bị cáo Phạm Vũ P là công chức, được điều động và phân công giữ chức vụ Giám đốc Văn hóa – Thông tin và Thể thao huyện Mang Thít từ ngày 01/4/2019 theo Quyết định số 1180 ngày 27/3/2019 của Ủy ban nhân dân huyện Mang Thít. Bị cáo Nguyễn Hoài P là viên chức, phụ trách kế toán và bị cáo Trần Mỹ H là viên chức, phụ trách thủ quỹ từ ngày 12/4/2019 theo Quyết định số 14a của Trung tâm Văn hóa – Thông tin và Thể thao huyện Mang Thít. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, các bị cáo Phạm Vũ P, bị cáo Nguyễn Hoài P và bị cáo Trần Mỹ H đã lập khống các chứng từ kế toán để quyết toán nguồn kinh phí không tự chủ, đã rút từ ngân sách nhà nước trong các đợt tổ chức chương trình thể dục, thể thao, văn hóa nghệ thuật. Cụ thể như sau: Giải Vô địch Taekwondo tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Giải Vô địch Vovinam tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Giải Vô địch Bóng đá tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Hội diễn nghệ thuật quần chúng tỉnh Vĩnh Long năm 2019; Chi tiếp khách; Mua trang thiết bị dụng cụ thể dục thể thao; Hội diễn phục vụ tuyên truyền cải cách hành chính 2019; Thu tiền cho thuê mặt bằng; Lập chứng từ quyết toán chấm công trực thư viện ngoài giờ. Tổng số tiền mà các bị cáo đã chiếm đoạt là: 134.386.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:
Hành vi của bị cáo Phạm Vũ P, Nguyễn Hoài P và Trần Mỹ H đã cấu thành nên tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 221 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít truy tố các bị cáo Phạm Vũ P, Nguyễn Hoài P và Trần Mỹ H về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” là có cơ sở đúng pháp luật. Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, bị cáo Phạm Vũ P là người tổ chức, bị cáo Nguyễn Hoài P là người thực hành, bị cáo Trần Mỹ H là người giúp sức.
– Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
– Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải; Bị cáo đã nộp lại toàn bộ số tiền gây thất thoát. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo quy định tại các điểm b, s, khoản 1 Điều 51 bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Phạm Vũ P đạt nhiều thành tích xuất trong công tác. Bị cáo Nguyễn Hoài P có bác ruột, cậu ruột là Liệt sĩ nên xem là tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo quy định tại khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự. Các bị cáo có nơi cư trú ổn định, không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ sức răn đe đối với các bị cáo.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
– Tuyên bị cáo Trần Mỹ H phạm tội: “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Trần Mỹ H 02 (Hai) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban thị trấn Cái Nhum nhận được bản án và quyết định thi hành án.
– Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoài P phạm tội: “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoài P 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban xã Tân An Hội nhận được bản án và quyết định thi hành án.
– Tuyên bố bị cáo Phạm Vũ P phạm tội: “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Xử phạt bị cáo Phạm Vũ P 03 (Ba) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban xã Mỹ An nhận được bản án và quyết định thi hành án.
Ví dụ 2:
Bản án số 02/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị về tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tóm tắt nội dung vụ án:
Trong khoảng thời gian công tác tại Trường Tiểu học Triệu Vân từ năm 2016 đến năm 2017, Lê Thị H lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Kế toán, đã thực hiện hành vi giả mạo, khai man tài liệu kế toán, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 256.953.108 đồng. Cụ thể: Ngày 08/8/2016, Lê Thị H lập dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2017 và lập Nhu cầu kinh phí thực hiện Nghị định số 61, Nghị định số 19 và Nghị định số 116 trình Lương Viết H ký, rồi gửi cho Phòng GD-ĐT và Phòng TC-KH. Trong đó, H đã lập hệ số lương dự toán của 08 giáo viên cao hơn so với Quyết định lương thực tế họ đang hưởng gồm Lê Thị Thanh T, Lê Thị Lan P, Lê Thị Thúy D, Võ Đại T, Nguyễn Thị Khánh H, Đỗ Thị Hoài A, Lê Thị Hoài P, Trần Thị T.
Ngày 28/9/2016, H lập danh sách cán bộ, giáo viên hưởng lương theo Nghị định 116 và Nghị định 19 có mặt tại trường đến ngày 27/9/2016 trình Hùng ký gửi Phòng GD-ĐT theo yêu cầu, để Phòng GD-ĐT tổng hợp gửi Phòng TC-KH thẩm định. Tại Danh sách này, Hạnh đã lập hệ số lương của 11 giáo viên cao hơn so với Quyết định lương thực tế đang hưởng, trong đó có 08 giáo viên nêu trên và có thêm 03 giáo viên là Trần Thị Tuyết L, Trần Đăng T và Lê Văn H.
Sau khi nhận được Nhu cầu truy lĩnh phụ cấp thực hiện Nghị định số 61, Nghị định số 19 và Nghị định số 116 của Trường Tiểu học Triệu Vân, Phòng GDĐT đã yêu cầu Trường Tiểu học Triệu Vân cung cấp các hồ sơ liên quan đến việc thực hiện chế độ Phụ cấp ưu đãi và Phụ cấp thu hút gồm: Quyết định tuyển dụng ban đầu của giáo viên khi về trường và Quyết định lương hiện hưởng để tiến hành thẩm định. Để đối phó với yêu cầu đó, H và H đã làm giả 15 Quyết định của 11 giáo viên nêu trên, bằng cách cắt, dán hệ số lương, thời gian quyết định lên nền quyết định cũ có sẳn sau đó phô tô thành bản mới (phô tô tại quán phô tô Khương Y ở thôn 8, xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong) rồi nộp cho Bộ phận Tài vụ Phòng GD-ĐT. Sau khi thẩm định, Phòng GD-ĐT đã lập Dự toán chuyển cho Phòng TCKH tiến hành thẩm định trình Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành quyết định cấp kinh phí.
Ngày 30/12/2016, Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành Quyết định số 1695/QĐ-UBND về việc phân bổ Dự toán chi ngân sách sự nghiệp giáo dục – đào tạo năm 2017 cho Phòng GD-ĐT và các trường học trên địa bàn huyện. Trong đó, Trường Tiểu học Triệu Vân được cấp kinh phí với số tiền 2.761.300.000 đồng, gồm có 35% Phụ cấp ưu đãi theo Nghị định số 61, Nghị định số 19 với số tiền 452.412.000 đồng, cao hơn thực tế59.597.000 đồng.
Ngày 10/4/2017, Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành Công văn số 695/UBND về việc triển khai thực hiện Nghị định 116. Ngày 27/4/2017, H lập Danh sách cán bộ, giáo viên nhận chế độ phụ cấp ưu đãi, phụ cấp thu hút theo Nghị định 116 và Nghị định 19 năm 2016 và năm 2017, Danh sách này H không trình H ký mà nộp cho Phòng GD-ĐT qua gmail của bà Võ Thị Thanh N (vothithanhnhan.pgdtp@quangtri.edu.vn), kế toán Phòng GD-ĐT vào lúc 09h03’ ngày 27/4/2017. Trong Danh sách này, H đã thay đổi thời gian nhận công tác, lập thêm hệ số phụ cấp, nâng hệ số lương của 11 giáo viên tương tự như danh sách lập ngày 28/9/2016 và thay đổi thời gian nhận công tác, lập thêm hệ số phụ cấp đối với 07 giáo viên, gồm: Trần Quang K, Lê Bá D, Hoàng Hữu T, Đặng Thị Thu T, Lê Thị Thanh T, Nguyễn Thị Thanh T, Lê Thị Mỹ H.
Ngày 20/6/2017, Chủ tịch UBND huyện Triệu Phong ban hành Quyết định số 699/QĐ-UBND v/v phân bổ kinh phí thực hiện Nghị định 116 và Nghị định 19 năm 2016, 2017. Trong đó, Trường Tiểu học Triệu Vân được phân bổ kinh phí với số tiền là 1.514.540.000 đồng, cao hơn so với thực tế là 255.574.000 đồng. Như vậy, với hành vi giả mạo, khai man tài liệu kế toán của Lê Thị H và Lương Viết H nên Trường Tiểu học Triệu Vân đã được cấp kinh phí thực hiện Nghị định số 61, Nghị định số 19 và Nghị định số 116 năm 2016, 2017 cao hơn thực tế số tiền là 315.171.000 đồng.
Tổng số tiền thiệt hại: 256.953.108 đồng
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:
Hành vi của các bị cáo Lương Viết H và Lê Thị H đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng” theo điểm a khoản 1 Điều 221 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
– Đối với bị cáo Lê Thị H: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hạnh thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại với số tiền là 125.600.000 đồng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo theo giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2019, mẹ bị cáo là bà Trần Thị H được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
– Đối với bị cáo Lương Viết H, quá trình điều tra bị cáo chưa thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị cáo H đã thành khẩn khai báo. Bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại với số tiền là 130.000.000 đồng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có bố là ông Lương Văn K được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba và Huân chương chiến thắng hạng Nhất, mẹ là bà Nguyễn Thị N được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất và Huân chương chiến thắng hạng Nhất, vợ là bà Nguyễn Thị V được Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục và được UBND tỉnh Quảng Trị tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong năm học 2005-2006 nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của từng bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo Lê Thị H và Lương Viết H đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên xét thấy không cần thiết bắt các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho các bị cáo được hưởng án treo giao họ cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với các bị cáo.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
Tuyên bố bị cáo Lương Viết H và Lê Thị H phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”.
– Xử phạt bị cáo Lương Viết H 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/01/2020.
– Xử phạt bị cáo Lê Thị H 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 16/01/2020.
- Dấu hiệu phạm tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Người kế toán phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện các hành vi khách quan như:
– Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
– Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
– Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
– Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ quy định của Luật kế toán;
– Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.
Ví dụ tình huống sau:
Thanh tra TP Cần Thơ đã ban hành Kết luận thanh tra số 33/KL-TTr ngày 9/1/2024 về tình hình thu, chi tài chính tại Trung tâm Dịch vụ Đấu giá tài sản TP.
Kết quả thanh tra cho thấy, từ năm 2018 – 2021, Trung tâm có nhiều thiếu sót, sai phạm trong hoạt động thu, chi và quản lý tài chính. Trong đó, thanh toán và hạch toán kế toán không đúng quy định với số tiền thanh toán trong năm 2018 hơn 1,4 tỷ đồng, năm 2019 là hơn 224 triệu đồng và hạch toán thu khi chưa đủ điều kiện xác định nguồn thu số tiền hơn 270 triệu đồng…
Năm 2021 – 2022, Trung tâm chưa được xét duyệt quyết toán; năm 2022 Giám đốc Trung tâm chưa ký báo cáo tài chính gửi cơ quan thẩm quyền để xét duyệt quyết toán.
Năm 2018 – 2020, Trung tâm trích lập 40% quỹ cải cách tiền lương và trích lập các quỹ trước khi xác định chênh lệch thu, chi chưa đúng quy định. Một số khoản chi hỗ trợ phúc lợi, khen thưởng, bổ sung thu nhập, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp hạch toán vào chi thường xuyên chưa đúng quy định.
Trung tâm hạch toán chi nguồn cải cách tiền lương khi chưa xin ý kiến của cơ quan có thẩm quyền, sử dụng nguồn cải cách tiền lương để hạch toán chi phí tiền lương chưa đúng quy định; một số khoản chi tiếp khách, mua sắm văn phòng phẩm, ký hợp đồng thuê dịch vụ vệ sinh chưa đầy đủ thủ tục theo quy định.
Về tình hình trích lập và sử dụng các quỹ, năm 2018 – 2019, Trung tâm trích lập quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ bổ sung thu nhập, quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, quỹ dự phòng ổn định thu nhập và quỹ cải cách tiền lương với tổng số tiền hơn 638 triệu đồng. Tuy nhiên, Trung tâm thực hiện chi lập các quỹ trước khi xác định chênh lệch thu, chi và hạch toán vào chi thường xuyên là chưa đúng quy định.
Sau khi xác định lại việc trích lập quỹ năm 2018 – 2020 cho thấy, Trung tâm thanh toán vượt quỹ được trích lập; lập chứng từ thanh toán khống và trích lập sai quy định với tổng số tiền hơn 336 triệu đồng.
Đến thời điểm thanh tra, Trung tâm còn nợ thuế, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, nợ người lao động… với tổng số tiền hơn 1,28 tỷ đồng. Ngoài ra, Trung tâm còn nợ tạm ứng ngân sách số tiền 1,12 tỷ đồng…
Chuyển cơ quan điều tra làm rõ hành vi vi phạm trong giai đoạn năm 2018 – 2021, Trung tâm để xảy ra nhiều sai phạm trong hoạt động thu, chi và quản lý tài chính như: Trích lập quỹ không đúng quy định; theo dõi thu, chi ngoài sổ sách kế toán, không phản ánh trên sổ sách kế toán nợ phải thu của khách hàng (gồm cả phần nợ tạm ứng ngân sách); rút quỹ tiền mặt để gửi ngân hàng và rút tiền gửi ngân hàng về quỹ tiền mặt nhưng không lập phiếu thu, phiếu chi và hạch toán kế toán; lập chứng từ khống thanh toán tiền học phí 120 triệu đồng; làm thất thoát quỹ tiền mặt hơn 318 triệu đồng; trích lập thiếu và chi không đúng quy định từ quỹ cải cách tiền lương số tiền hơn 243 triệu đồng; không lập chứng từ kế toán, để ngoài sổ sách kế toán, không theo dõi thu hồi tạm ứng.
“Những sai phạm của Trung tâm là nghiêm trọng dẫn đến mất khả năng thanh toán tạm ứng từ ngân sách với số tiền 1,12 tỷ đồng và các khoản nợ thuế, nợ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, nợ lương… có dấu hiệu vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 221 Bộ luật Hình sự 2015, điểm đ Khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, được bổ sung bởi điểm k Khoản 1 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017”, kết luận thanh tra nêu.
Nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót, sai phạm trong hoạt động thu, chi và quản lý tài chính tại Trung tâm là do Giám đốc thiếu trách nhiệm; thiếu kiểm tra, giám sát, buông lỏng công tác quản lý, điều hành; Trưởng phòng Kế toán, kế toán trưởng có nhiều vi phạm trong công tác tài chính, kế toán, hạch toán sai các khoản chi phí; hạch toán và trích lập quỹ không đúng quy định; để ngoài sổ sách kế toán nhiều khoản thu, chi; không hoàn trả tạm ứng ngân sách; thủ quỹ vi phạm quy định trong quản lý quỹ tiền mặt dẫn đến thất thoát quỹ.
“Những thiếu sót, sai phạm nêu trên là nghiêm trọng, khó khắc phục, thậm chí không thể khắc phục. Trách nhiệm chính thuộc về Giám đốc, Trưởng phòng Kế toán, kế toán trưởng và thủ quỹ của Trung tâm giai đoạn từ năm 2018 – 2022 và giai đoạn trước năm 2018”.
- Hành vi phạm tội và chế tài xử lý vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Khung hình phạt đối với tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
Tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng có 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, tùy vào mức độ của hành vi phạm tội và hậu quả gây ra sẽ có khung hình phạt khác nhau, cụ thể:
Khung 1: phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm
Giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán;
Dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật;
Để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán;
Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ quy định của Luật kế toán;
Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị kế toán.
Khung 2: phạt tù từ 03 năm đến 12 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
Vì vụ lợi;
Có tổ chức;
Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
Khung 3: phạt tù từ 10 năm đến 20 năm đối với người phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên
Hình phạt bổ sung
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Chương 2: Hướng kiểm soát và đấu tranh phòng chống tội phạm về vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại điều 221 Bộ Luật hình sự 2015.
2.1 Nâng cao nghiệp vụ chuyên môn đấu tranh phòng chống tội phạm về kế toán và kiểm toán.
2.1.1 Nhận diện và xác định hành vi phạm tội về vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Căn cứ Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), Điều 221 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có thể xác định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng bao gồm các vấn đề sau:
Thứ nhất, có tội phạm vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và các tình tiết khác của hành vi phạm tội?
Để chứng minh có tội phạm vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra hay không, cần phải chứng minh được các nội dung:
(1) Có hành vi giả mạo, khai man, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa tài liệu kế toán; dụ dỗ, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật; để ngoài sổ kế toán tài sản của đơn vị kế toán hoặc tài sản liên quan đến đơn vị kế toán; hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước thời hạn lưu trữ theo quy định của Luật Kế toán; lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên nhằm bỏ ngoài sổ kế toán tài sản, nguồn vốn, kinh phí của đơn vị.
(2) Thời gian xảy ra hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; được kéo dài trong thời gian bao lâu. Hành vi này xảy ra ở khâu nào, thuộc đơn vị kế toán nào; phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm và những tài liệu, vật chứng có liên quan đến vụ án.
(3) Hậu quả do hành vi vi phạm quy định về kế toán gây ra; những tình tiết khác của hành vi phạm tội.
Thứ hai, ai là người thực hiện hành vi phạm tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng?
Để đạt được nhiệm vụ của quá trình điều tra vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, quá trình điều tra cần chứng minh, làm rõ được chủ thể của tội phạm ở các nội dung sau:
(1) Ai là người phạm tội (bao gồm: họ tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp), năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi của người phạm tội là gì. Họ có đồng phạm hay không có đồng phạm vị trí; vai trò, mức độ phạm tội của các đồng phạm trong vụ án. Đồng thời, làm rõ chức vụ, quyền hạn, nhiệm vụ của từng người khi thực hiện hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
(2) Mục đích, động cơ, ý thức chủ quan của mỗi người khi thực hiện hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ ba, những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, đặc điểm nhân thân của bị can.
Trong quá trình điều tra vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, cần chứng minh, làm rõ được:
(1) Chứng minh, làm rõ người phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điểm 5 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án Nhân dân tối cao và Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
(2) Những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng trực tiếp đến tội phạm (những đặc điểm mang tính chất pháp lý) như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp; có thái độ tự thú hoặc hối cải, lập công chuộc tội hay ngoan cố không chịu nhận tội. Người phạm tội có tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm, có lập công chuộc tội hay có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc trong công tác.
(3) Những đặc điểm nhân thân khác tuy không mang tính chất pháp lý, nhưng ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội như thành phần gia đình, quá trình hoạt động chính trị – xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp; người phạm tội thuộc dân tộc ít người, gia đình chính sách, có công với cách mạng, là nhân sĩ, trí thức có tên tuổi, là chức sắc tôn giáo…; những đặc điểm phản ảnh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội như người già yếu, bị bệnh hiểm nghèo, phụ nữ có thai, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hay của gia đình…
Thứ tư, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng gây ra.
Đây là dấu hiệu bắt buộc, là yếu tố quan trọng để đánh giá và xác định đúng mức tính chất của hành vi phạm tội. Quá trình chứng minh vấn đề này cần làm rõ thiệt hại do hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng gây ra, tác động như thế nào đến tình hình chính trị, kinh tế – xã hội, thiệt hại về kinh tế, tài sản là bao nhiêu.
Thứ năm, nguyên nhân, điều kiện phạm tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
Mục đích đấu tranh, phòng, chống tội phạm không chỉ phát hiện, điều tra để xử lý nghiêm minh người phạm tội mà còn tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải thu thập tài liệu chứng cứ để làm rõ:
(1) Làm rõ những sơ hở, thiếu sót trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động kế toán cũng như quá trình tổ chức thực hiện, vận dụng các văn bản pháp quy đó; những sơ hở, thiếu sót trong công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc, chế độ, chính sách về quản lý tài chính, kế toán.
(2) Đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý tài chính, kế toán cũng như biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với những hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ sáu, những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Trong quá trình điều tra vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, để có cơ sở đề nghị truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, cần phải chứng minh các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự của bị can được quy định tại Chương IV BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), bao gồm: sự kiện bất ngờ, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên và các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
2.1.2 Chứng cứ trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Căn cứ quy định tại Điều 86, 87 Bộ luật TTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), từ thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, chứng cứ trong các vụ án vi phạm về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng có thể bao gồm:
– Vật chứng: bao gồm hồ sơ, tài liệu kế toán của đơn vị kế toán vi phạm; công cụ, phương tiện sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (máy tính, laptop…); tiền, tài sản hình thành từ nguồn kinh phí bị thiệt hại của đơn vị kế toán; tài liệu, phương tiện phản ánh việc chỉ đạo, liên lạc, trao đổi, thỏa thuận giữa các bị can, người có liên quan trong vụ án…
– Lời khai của bị can, người làm chứng, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, người đại diện đơn vị kế toán để xảy ra hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.
– Dữ liệu điện tử: bao gồm dữ liệu kế toán được lưu trên các phương tiện, thiết bị điện tử được khởi tạo bởi các phần mềm tin học; thông tin về việc chỉ đạo, liên lạc, trao đổi, thỏa thuận giữa các bị can, người có liên quan trong vụ án được lưu trữ trên các phương tiện, thiết bị điện tử, không gian mạng…
– Kết luận giám định tài chính kế toán; kết luận giám định tài liệu chữ ký, chữ viết, con dấu; kết luận giám định tình trạng tâm thần; kết luận định giá tài sản…
– Biên bản hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; biên bản khám xét, biên bản bắt, biên bản tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội phạm, biên bản nhận dạng, biên bản thực nghiệm điều tra…
– Kết quả thực hiện ủy thác điều tra và hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự.
Phương thức thu thập chứng cứ
Các chứng cứ trên có thể được thu thập bằng cách tiến hành các biện pháp sau:
Một là, thu thập các tài liệu, chứng cứ để chứng minh thông qua tiến hành các biện pháp điều tra theo tố tụng hình sự như: khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, lấy lời khai người đại diện của đơn vị kế toán có hành vi vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra, trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, khám xét, nhận dạng…
Hai là, cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin về tội phạm vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng thông qua quá trình làm việc với: các đơn vị quản lý nhà nước có liên quan (cơ quan quản lý thuế, sở Tài chính, cục Tài chính doanh nghiệp, vụ Tài chính ngân hàng, cục Quản lý giám sát bảo hiểm, đơn vị quản lý cấp trên của đơn vị kế toán…), đơn vị kế toán có xảy ra tội phạm vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, bị can, bị hại, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng cung cấp, giao nộp cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc tiếp nhận phải được lập thành biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
Ba là, tiếp nhận các thông tin, tài liệu về vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng do người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác trong vụ án cung cấp. Đối với trường hợp này, khi tiếp nhận, các cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản tiếp nhận và kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án của các tài liệu, chứng cứ này.
2.1.3 Trách nhiệm chứng minh trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Điều 15 Bộ luật TTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội”.
Căn cứ vào quy định này, có thể thấy, trách nhiệm chứng minh trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, đó là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án phải áp dụng các biện pháp thu thập, đánh giá tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật để chứng minh, làm rõ sự thật của vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
Người bị buộc tội trong vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng có quyền được đưa ra tài liệu, chứng cứ để chứng minh nhưng không bị bắt buộc. Theo quy định tại Điều 13 Bộ luật TTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021): “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Như vậy, căn cứ quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn hoạt động điều tra cho thấy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án và truy tố vụ án vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, còn ở giai đoạn xét xử, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về đại diện viện kiểm sát thực hành quyền công tố và Hội đồng xét xử. Trách nhiệm chứng minh tội phạm vi phạm quy định về kế toán thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, do vậy, kể cả trong trường hợp người phạm tội không đưa ra được những chứng cứ để chứng minh là họ vô tội thì cũng không thể vì thế mà các cơ quan có thẩm quyền không tiến hành tố tụng kết tội họ.
2.2 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
2.2.1 Trách nhiệm người đứng đầu cơ quan đơn vị
Trong công tác kế toán thì vẫn phải chịu sự giám sát của người đứng đầu cơ quan đơn vị. Người làm kế toán phải chịu trách nhiệm trước người đứng đầu đơn vị và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên thực tiễn tại nhiều cơ quan đơn vị thì người đứng đầu cơ quan lại không có chuyên môn về kế toán. Vì vậy đã dẫn đến nhiều trường hợp người làm kế toán đã “qua mặt” lãnh đạo để làm sai phạm gây hậu quả nghiêm trọng.
Chính vì vậy, trách nhiệm và vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị đòi hỏi người lãnh đạo phải được tranh bị về kiến thức kế toán hoặc phải thường xuyên có bộ phận tham mưu giúp lãnh đạo kiểm tra, kiểm toán nội bộ định kỳ hàng tháng, hàng quý.
Cần phải nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán để các đơn vị được kiểm toán “tâm phục khẩu phục” và hoạt động đúng theo quy định của pháp luật.
2.2.2 Giáo dục phẩm chất đạo đức, quy chuẩn nghề nghiệp cho kê toán, kiểm toán.
– Kế toán viên có trách nhiệm tuân thủ các quy định của pháp luật về kế toán, thuế,… Điều này giúp doanh nghiệp tránh được các rủi ro pháp lý, đảm bảo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra một cách hợp pháp và suôn sẻ.
– Trung thực và cẩn thận là những phẩm chất cần thiết đối với bất kỳ công việc nào, đặc biệt là kế toán. Nhân viên kế toán cần có trách nhiệm cao trong công việc, đảm bảo tính chính xác và minh bạch của các số liệu tài chính.
Nhìn chung, nhân viên kế toán đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý tài chính của doanh nghiệp. Họ là những người cung cấp thông tin tài chính chính xác, kịp thời và hữu ích cho ban lãnh đạo, các nhà quản lý, giúp đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả cho doanh nghiệp.
# LUẬT SƯ TỔNG HỢP