Những điểm lưu ý:
[1] Về yêu cầu phản tố của ông Đặng Lê Nguyên V:
[1.1] Về thủ tục phản tố đã thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; phía nguyên đơn đã được biết về các yêu cầu phản tố của ông V và cũng đã có các văn bản gửi Tòa án cấp sơ thẩm để trình bày ý kiến về các yêu cầu phản tố này. Cho nên về thời điểm phản tố, thủ tục phản tố của ông V phù hợp với quy định tại Điều 200 và Điều 202 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Việc rút một phần yêu cầu phản tố của của bị đơn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm được xem xét, giải quyết tại phiên tòa sơ thẩm. Cho nên, trước khi mở phiên tòa, mặc dù trong giai đoạn chuẩn bị xét xử ông V rút một phần yêu cầu phản tố, Tòa án không ra quyết định đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông V là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự nêu trên
[1.3] Việc Tòa án cấp sơ thẩm không đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu phản tố ông V đã rút là thiếu sót, nhưng không thể coi sự thiếu sót đó là: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng Thẩm phán nhận thấy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phần này là không cần thiết.
[2] Về đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng:
[2.1] Việc phân chia 13 bất động sản nói trên không làm thay đổi người quản lý, không ảnh hưởng đến quyền hoặc nghĩa vụ của người đang thuê các bất động sản đó; nếu sau này người thuê bất động sản với người chủ sở hữu nhà, người được quyền sử dụng đất có phát sinh tranh chấp thì họ có quyền khởi kiện vụ án khác. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa những người đang thuê các bất động sản này vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đúng theo quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phần này là không có căn cứ.
[2.2] Về việc không đưa ông Lê Hoàng V1 tham gia tố tụng.
[3] Về quan hệ hôn nhân:
[3.1] Bà Th là người khởi kiện xin ly hôn, trong quá trình giải quyết vụ án, bà Th lúc xin ly hôn, lúc xin đoàn tụ. Ông V lúc đầu xin đoàn tụ sau đó đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông V và bà Th tự nguyện thống nhất ly hôn, nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Th và ông V là đúng quy định của pháp luật.
[3.2] Trong vụ án này, quan hệ hôn nhân giữa ông V và bà Th đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần thiết phải chấp nhận cho ông V, bà Th ly hôn. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về nội dung này là có căn cứ. Tuy nhiên, việc giải quyết cho các bên ly hôn trong vụ án này là cần thiết, do đó, không cần phải hủy đối với phần này của Bản án phúc thẩm, mà chỉ cần sửa cách tuyên về quan hệ hôn nhân giữa ông V và bà Th là phù hợp.
[4] Về chia tài sản chung của vợ chồng:
[4.1] Về định giá tài sản:
Tuy các bên không lựa chọn tổ chức thẩm định giá, nhưng các bên đều thống nhất đồng ý với chứng thư thẩm định giá, cho nên Tòa án cấp sơ thẩm không lập Hội đồng định giá mà căn cứ vào kết quả thẩm định giá đối với phần góp vốn của ông V và bà Th tại các công ty thuộc Tập đoàn TN đã được các bên thống nhất để giải quyết vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[4.2] Về phân chia các bất động sản:
Xét thấy, tổng hợp toàn bộ nội dung của việc tuyên án nói trên là nhằm phân chia cho bà Lê Hoàng Diệp Th được quyền sử dụng các thửa đất và sở hữu tài sản trên các thửa đất do bà Th đang quản lý, sử dụng; tuy nhiên bản án đã tuyên thừa cụm từ “giá trị” (bởi vì nếu chỉ được phân chia giá trị quyền sử dụng đất và giá trị tài sản trên đất thì Tòa án sẽ không tuyên “Bà Lê Hoàng Diệp Th có trách
nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại các địa phương nơi có tài sản để làm thủ tục chuyển đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đối với các thửa đất nói trên theo luật định”. Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát hiện sai sót này là đúng, tuy nhiên chỉ cần Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng nghị theo hướng căn cứ Điều 347 Bộ luật Tố tụng năm 2015 sửa bản án phúc thẩm, chỉ cần sửa bỏ cụm từ “giá trị” trong phần quyết định nêu trên của bản án phúc thẩm là bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, không cần thiết phải hủy bản án phúc thẩm để xét xử lại.
[4.3] Về chia giá trị tài sản là cổ phần tại các Công ty:
Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Tài sản chung của ông V, bà Th có là do lợi nhuận từ hoạt động đầu tư kinh doanh tại các công ty thuộc Tập đoàn TN. Nguồn gốc Tập đoàn TN là do ông Đặng Lê Nguyên V cùng với cha mẹ của ông đã sáng lập ra TN từ năm 1996; đến năm 1998 ông V kết hôn với bà Th. Năm 2006, bà Th mới bắt đầu tham gia vào Công ty cổ phần cà phê TN với số vốn góp là 10%. Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà Th thừa nhận không có chứng cứ chứng minh bà Th đưa tiền cho ông V để lập nghiệp. Qua các giai đoạn phát triển của Tập đoàn TN, ông V luôn giữ chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty. Trong tất cả các giấy phép kinh doanh của các công ty thuộc Tập đoàn TN thì số cổ phần do ông V đứng tên chiếm phần lớn.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về phần này là không cần thiết.
[4.4] Về chia tài sản là tiền, ngoại tệ, vàng gửi tại ngân hàng:
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định khoản tiền, vàng, ngoại tệ tại các ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng được quy đổi tại thời điểm xét xử sơ thẩm tổng cộng là 1.764.633.211.401,22 đồng (bao gồm 48 tài khoản đứng tên bà Th và 06 tài khoản đứng tên ông Lê Hoàng V1). Do ông Đặng Lê Nguyên V rút yêu cầu phản tố đối với số tiền ngoại tệ là 1.400.269,17 GBP và 7.350.000 USD (giá trị tương đương 212.989.332.611,29 đồng tiền Việt Nam, tại thời điểm xét xử sơ thẩm) trong 06 tài khoản đứng tên Lê Hoàng V1 tại Ngân hàng E nên tổng số tài sản chung của vợ chồng là các khoản tiền, vàng, ngoại tệ gửi tại ngân hàng được xác định lại là 1.551.643.878.789,93 đồng(1.764.633.211.401,22 đồng – 212.989.332.611,29 đồng). Do đó, giao cho bà Th sở hữu toàn bộ số tiền bà Th gửi tại các Ngân hàng Vi, Ngân hàng BI, Ngân hàng E tổng cộng là 1.551.643.878.789,93 đồng.
Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thấy:
1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 08/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 31/3/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 39/2019/HNGĐ-PT ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về phần quan hệ hôn nhân; về cách tuyên trong phần giao bất động sản; về 06 tài khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu VN đứng tên ông Lê Hoàng V1.
2. Chấp nhận đơn xin rút một phần yêu cầu phản tố của ông Đặng Lê Nguyên V về việc chia khoản tiền có trong 06 tài khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu VN đứng tên ông Lê Hoàng V1; hủy một phần Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 291/2019/HNGĐ-ST ngày 27/3/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, hủy một phần Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 39/2019/HNGĐ-PT ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí minh và đình chỉ giải quyết về yêu cầu của ông Đặng Lê Nguyên V về chia tài sản tại 06 tài khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu VN đứng tên ông Lê Hoàng V1 bao gồm: 03 tài khoản tiền GBD (Bảng Anh) là: Tài khoản số 220767590000761, số tiền gửi: 100.020 GBP;Tài khoản số 220764849235202, số tiền gửi: 220.056,2 GBP; Tài khoản số 220767590000980, số tiền gửi: 1.080.186 GBP. 03 tài khoản tiền USD (đô la Mỹ) là: Tài khoản số 220764849235465, số tiền gửi: 3.150.000 USD; Tài khoản số 220767590000867, số tiền gửi: 3.400.000 USD; Tài khoản số 220767590000870, số tiền gửi: 800.000 USD.
3. Sửa Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 39/2019/HNGĐ-PT ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
*****
Luật Sư Tổng Hợp giới thiệu Quyết định giám đốc thẩm số 01/2021/HNGĐ-GĐT ngày 11/3/2021 của Tòa án nhân dân tối cao. Việc sưu tầm và đăng tải này nhằm mục đích học tập. Chúng tôi phản đối việc sử dụng các tài liệu/dữ liệu trên trang web này vào mục đích khác khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của chúng tôi.